Alexandros Đại đế
Server :
server
Alexander the Great - 1/5
Alexandros Đại đế
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Xin xem các mục từ khác có tên tương tự ở Alexandros Đại đế (định hướng).
|
Tiếp sau khi thống nhất các thành bang Hy Lạp cổ đại dưới sự cai trị của vua cha Philipos II[2], Alexandros chinh phục Đế chế Ba Tư, bao gồm cả Tiểu Á, Syria, Phoenicia, Gaza, Ai Cập, Bactria và Lưỡng Hà và mở rộng biên cương đế chế của ông đến xa tận Punjab. Alexandros thực hiện một chính sách hòa hợp: ông đưa cả những người ngoại quốc (không phải người Hy Lạp hay người Macedonia) vào chính quyền và quân đội của mình, ông khuyến khích hôn nhân giữa quân của mình với người nước ngoài và chính ông cũng lấy vợ ngoại quốc.
Sau mười hai năm liên tục tổ chức các chiến dịch quân sự, Alexandros qua đời, có lẽ là do sốt rét, thương hàn, hay viêm não do virút. Những cuộc chinh phạt của ông mở đầu cho nhiều thế kỉ định cư và thống trị của người Hy Lạp trên nhiều vùng đất xa xôi, một giai đoạn được gọi là thời kỳ Hy Lạp hóa. Bản thân Alexandros sống trong lịch sử và trong các truyền thuyết của các nền văn hóa Hy Lạp và không Hy Lạp. Ngay khi ông còn sống, và đặc biệt sau khi ông qua đời, những cuộc chinh phạt của ông đã là nguồn cảm hứng của một truyền thống văn học mà trong đó ông xuất hiện như là một anh hùng huyền thoại theo truyền thống của Achilles (Asin).
[sửa] Thời thơ ấu
Tranh khảm Alexandros đánh nhau với sư tử cùng với bạn của ông là Caterus.Tranh khảm thế kỷ thứ 3, bảo tàng Pella
Hầu hết mọi người đều xem Alexandros là một trong số rất ít hoàng đế thời cổ đại, đã tiếp nhận một nền giáo dục và huận luyện chuyên môn để giữ vai trò thống trị một đế quốc. Dưới sự sắp xếp của người cha, ngay từ năm 13 tuổi ông đã theo học Aristotle, một triết gia nổi tiếng người Hy Lạp.[4][5] Aristotle đã huấn luyện Alexandros về mọi mặt như thuật hùng biện và văn học và gợi lên các sở thích của cậu ta trong khoa học, y khoa và triết học. Sau khi viếng thăm Oracle xứ Ammon tại Siwa, theo như năm sử gia cổ đại (Arrian, Curtius, Diodorus, Justin và Plutarch), lan đi những lời đồn là Oracle đã tiết lộ cha của Alexandros là Zeus, chứ không là Philipos. Theo như Plutarch, cha ông là hậu duệ của Heracles qua Caranus và mẹ là hậu duệ của Aeacus thông qua Neoptolemus và Achilles[6]. Thông qua mẹ ông, Alexandros là anh họ thứ hai của Pyrrhus của Epirus, một vị tướng vĩ đại sau này. Aristotle đưa cho Alexandros một bản sử thi Iliad của Homer, mà ông luôn giữ và đọc thường xuyên. Theo 10 đại hoàng đế thế giới, Alexandros rất ngưỡng mộ và luôn học hỏi theo sự nghiệp vĩ đại của người anh hùng Achilles thời chiến tranh thành Troy.[4]
[sửa] Tuổi thơ không êm đềm
Alexandros rất say mê nghiên cứu và luyện tập binh pháp. Sách Lịch sử thế giới: Từ 570 triệu năm trước đến 1990 sau Công nguyên: Trình bày bằng những hình ảnh cụ thể, gọi ông là một người vĩ đại và có nhân cách khác thường.[5] Năm 16 tuổi,[5] ông bắt đầu theo cha mình đi chinh chiến, học hỏi các bố trận và làm tướng. Khi Philipos lãnh đạo cuộc tấn công vào Byzantium năm 340 TCN, Alexandros được để lại như là quan chấp chính của Macedonia. Vào năm 339 TCN, Philipos lấy người vợ thứ năm, Cleopatra Eurydice xứ Macedonia. Vì mẹ của Alexandros, Olympias, là người từ Epirus (một vùng đất thuộc phần phía tây của bán đảo Hy Lạp và không phải là một phần của Macedonia), và Cleopatra là một người Macedonia chính gốc, điều này đã dẫn đến tranh cãi về quyền nối ngôi hợp pháp của Alexandros. Attalus, chú của cô dâu, được kể là nâng ly trong tiệc cưới để chúc cho lễ thành hôn sẽ sản sinh ra một người nối ngôi hợp pháp của xứ Macedonia; Alexandros hất cốc rượu vào Attalus nạt lớn:- Thế thì ta là gì, một đứa con bất hợp pháp à?.
- Đây là người đàn ông dự định chinh phục từ Hy Lạp đến châu Á, và ông ta không thể di chuyển nổi từ bàn này sang bàn khác.
Cuối cùng thì vua cha Philipos giảng hòa với con trai, và Alexandros quay trở lại nhà; Olympias và em gái của ông vẫn ở lại Epirus. Vào năm 338 TCN Alexandros giúp vua cha trong trận quyết định Trận đánh Chaeronea chống lại các thành phố Hy Lạp tự trị Athena và Thebes, cánh do đội kỵ binh dẫn đầu bởi Alexandros đã tiêu diệt Đoàn quân thần thánh Thebes, một lực lượng tinh nhuệ được xem là bất khả chiến bại. Sau trận đánh, Philipos tổ chức ăn mừng trọng thể, và đáng để ý là Alexandros không tham dự (người ta tin rằng ông đang chăm sóc thương binh và chôn cất liệt sỹ, của quân đội anh và của kẻ thù). Philipos bằng lòng tước quyền thống trị của Thebes đối với Boeotia và để lại một đội quân đồn trú trong thành. Một vài tháng sau, để gia cố sự thống trị của Macedonia đối với các thành phố Hy Lạp tự trị, Hiệp hội Corinth được thành lập.
[sửa] Lên ngôi vua Macedonia
Vào năm 336 TCN, Philipos bị ám sát tại lễ cưới của con gái ông là Cleopatra xứ Macedonia với vua Alexandros I của Epirus. Kẻ ám sát được kể là một người được vua ân sủng trước đây, một nhà quý tộc trẻ bất mãn Pausanias, người có mối hận thù với Philipos vì nhà vua bỏ mặc một lời than phiền mà anh ta đã đưa ra. Vụ ám sát Philipos được xem là đã được tính toán trước với thông tin và sự tham gia của Alexandros hay Olympias. Một kẻ có khả năng là chủ mưu là Darius III, người vừa lên ngôi hoàng đế Ba Tư. Plutarch đề cập đến một lá thư giận dữ từ Alexandros gửi Darius, trong đó ông đổ thừa cho Darius và Bagoas, là quan tể tướng, cho cái chết của vua cha, nói rằng chính Darius là người đã khoác lác với các thành phố Hy Lạp là ông ta đã tổ chức ám sát Philipos như thế nào. Sau cái chết của Philipos, quân đội suy tôn Alexandros, lúc này 20 tuổi, như là vua mới của Macedonia. Các thành phố Hy Lạp như Athena và Thebes, bị bắt buộc phải quy phục Philipos, thấy vị vua mới như là một cơ hội để giành lại hoàn toàn quyền độc lập của họ. Alexandros hành động nhanh chóng và Thebes, là thành phố chống lại ông tích cực nhất, đã đầu hàng khi ông xuất hiện ở cửa thành. Hội đồng Hy Lạp tại Eo Corinth, với ngoại lệ Sparta, bầu ông lên như là tổng tư lệnh chống lại quân Ba Tư, mà trước đây chức danh này được phong tặng cho cha ông.Năm kế tiếp, (335 TCN), Alexandros cảm thấy tự do tiến đánh Thracia và Illyria để bảo vệ Danube như là biên giới phương bắc của Vương quốc Macedonia. Trong khi ông đang chinh phạt phía bắc một cách thắng lợi, người Thebes và Athena lại nổi dậy một lần nữa. Alexandros phản ứng lập tức và trong khi các thành phố khác lại một lần nữa do dự, Thebes lần này quyết định chống trả cật lực nhất. Sự chống trả là vô ích; cuối cùng, thành phố bị chinh phục với nhiều máu đổ. Người Thebes chịu số phận thê thảm hơn khi thành phố bị đốt trụi và lãnh thổ bị chia ra giữa các thành phố Boeotian khác. Hơn nữa, tất cả các công dân của thành phố bị bán thành nô lệ, chỉ chừa lại các thầy tu, các lãnh tụ của các đảng ủng hộ Macedonian và hậu duệ của Pindar, người mà nhà không bị đụng chạm đến. Kết cục của Thebes làm Athena sợ hãi mà đầu hàng và sẵn sàng chấp nhận yêu sách của Alexandros cho lưu đày các lãnh tụ của đảng chống lại Macedonia, Demosthenes là người đầu tiên.
[sửa] Giai đoạn của các cuộc chinh phạt
Sau khi củng cố nền thống trị ở Hy Lạp, ông liền tích cực lo việc thực thi kế hoạch chinh phạt đế quốc Ba Tư mà tiên vương đã soạn thảo, để qua đó cướp đoạt tài nguyên phong phú ở phía đông.[7] Lúc bấy giờ, vương triều Achaemenid của Ba Tư đã suy yếu, nội bộ thường tranh chấp liên miên. Alexandros nhân cơ hội này mà phát động cuộc viễn chinh, đồng thời, ông cũng dùng cuộc chinh phạt này để chuyển tầm nhìn của những người Hy Lạp chống Macedonia sang hướng khác, và cũng làm hòa dịu cuộc khủng hoảng về kinh tế và chính trị ở các thành bang Hy Lạp.[7][sửa] Sự sụp đổ của Đế quốc Ba Tư
Mùa xuân năm 334 TCN, Alexandros xua quân đông chinh. Quân của ông đã vượt qua eo biển Hellespont với khoảng 42.000 binh sỹ - chủ yếu là người Macedonia[8] và Hy Lạp, đa phần là từ các thành phố tự trị phía nam Hy Lạp, nhưng cũng có bao gồm một số người Thracia, Paionia và Illyria. Tương truyền khi đó ông đích thân cầm lái chiếc kỳ hạm của mình, và giết một con bò để hiến tế cho thần biển Poseidon.[7], ông còn dùng một chén vàng đựng rượu măt biển để cùng thần biển. Khi chiến thuyền cập đến bờ biển bên kia, Alexandros mình mặc võ phục, bước lên đại lục châu Á đầu tiên.[7]Sau một chiến thắng khởi đầu chống lại lực lượng Ba Tư tại Trận đánh Granicus, Alexandros chấp nhận sự đầu hàng của thủ phủ tỉnh Ba Tư và ngân khố của Sardis và tiếp tục tiến xuống bờ biển Ionia. Tại Halicarnassus, Alexandros đã thành công trong việc tổ chức những cuộc bao vây đầu tiên, cuối cùng buộc đối phương, thuyền trưởng đánh thuê Memnon xứ Rhodes và các satrap (thống đốc) Ba Tư của Caria, Orontobates, phải rút lui bằng đường biển. Alexandros trao Caria cho Ada, người từng là nữ hoàng xứ Caria trước khi bị chiếm ngôi bởi người em trai là Pixodarus. Từ Halicarnassus, Alexandros tiến vào vùng núi Lycia và đồng bằng Pamphylia, khẳng định chủ quyền trên tất cả các thành phố ven biển và từ chối quyền đó cho kẻ thù của ông. Từ Pamphylia trở đi, bờ biển không còn cảng lớn nào và do đó Alexandros di chuyển vào trong lục địa. Tại Termessus, Alexandros khiêm tốn nhưng không ập vào thành phố Pisidia. Tại kinh đô cổ đại Phrygia của xứ Gordium, Alexandros “tháo” nút thắt Gordian Knot, một thách thức được nói là chờ cho vị “vua của cả châu Á” trong tương lai. Theo một câu chuyện sinh động nhất, Alexandros nói rằng không cần biết làm thế nào nút thắt được mở ra, và ông cắt nó bằng thanh gươm. Một dị bản khác nói ông đã không dùng gươm, nhưng thực sự đã tìm ra cách mở nút.
Quân của Alexandros băng qua Cổng Cilician, chạm phải và đánh bại quân chủ lực của Ba Tư dưới sự chỉ huy của hoàng đế Darius III trong Trận đánh Issus vào năm 333 TCN. Darius tháo chạy khỏi trận đánh trong hoảng loạn bỏ lại vợ là Stateira I, hai con gái, mẹ già, và phần lớn của cải cá nhân. Sisygambis, mẹ của hoàng hậu, không bao giờ tha thứ Darius đã bỏ rơi con gái bà. Bà chối bỏ Darius, và Alexandros đã cưới được một con gái của Darius III là Stateira II. Tiến xuống bờ biển Địa Trung Hải, anh lấy được Tyre và Gaza sau những trận vây hãm nổi tiếng (xem Cuộc bao vây Tyre). Alexandros đi ngang qua gần đó nhưng có lẽ không ghé vào Jerusalem.
Vào năm 332 TCN – 331 TCN, Alexandros được chào đón như là người giải phóng ở xứ Ai Cập và được công nhận là con trai của Zeus bởi các tu sỹ Ai Cập thờ thần Ammon tại Đền thờ thần ở Ốc đảo Siwa trong sa mạc ở Libya. Từ đó trở về sau, Alexandros nhắc đến thần Zeus-Ammon như là cha thật sự của mình, và sau đó đồng tiền có hình ông với sừng cừu như là chứng minh cho niềm tin phổ biến này. Ông thành lập thành phố Alexandria ở Ai Cập, sau đó trở thành một kinh đô phồn vinh của triều đại Ptolemy sau khi ông qua đời. Rời khỏi Ai Cập, Alexandros hành quân về phía đông vào vùng Assyria (bây giờ là bắc Iraq) và đánh bại Darius và quân đội Ba Tư thứ ba tại Trận đánh Gaugamela. Darius buộc phải bỏ chạy sau khi người lái chiến xa của ông ta bị giết, và Alexandros đuổi theo ông ta xa đến tận Arbela. Trong khi Darius chạy về vùng núi về phía Ecbatana (nay là Hamadan), Alexandros tiến về thành Babylon.
Từ Babylon, Alexandros đi đến Susa, một trong những kinh đô của Achaemenid, và chiếm được ngân khố quốc gia Ba Tư. Gửi đi toàn bộ quân lính đến Persepolis, kinh đô Ba Tư, bằng Đại lộ Hoàng gia, Alexandros ập vào và chiếm được Cổng Ba Tư (Persian Gate) (vùng nay là Dãy núi Zagros), sau đó đánh vào Persepolis trước khi ngân khố ở đó có thể bị cướp phá. Alexandros cho phép lực lượng liên hợp cướp phá Persepolis. Một ngọn lửa lớn bùng cháy ở dinh thự phía đông của hoàng đế Xerxes và lan đi khắp thành phố. Không ai biết việc đốt cháy Athenian Acropolis là một tai nạn do say rượu hay là một hành động trả thù cố ý trong Chiến tranh Ba Tư lần hai. Cuốn Sách của Arda Wiraz, một tác phẩm Zoroastrian được viết ra vào thế kỉ thứ 3 hay 4, cũng nói về những thư viện lưu trữ chứa đựng “tất cả Avesta và Zand, được viết trên những tấm da bò đã thuộc, với mực mạ vàng” đã bị thiêu hủy; nhưng những câu như vậy thường bị nghi ngờ bởi các học giả, bởi vì nói chung là người ta nghĩ rằng qua nhiều thế kỉ Avesta chủ yếu được truyền khẩu bởi những người Magia.
Ông sau đó đuổi theo và bắt được Darius, ông này sau bị giết bởi những đồ đệ của Bessus, thống đốc vùng Bactria và cũng là một người bà con. Bessus sau đó tự tuyên bố là người kế vị của Darius như là Artaxerxes V và rút lui vào vùng Trung Á để tiến hành chiến tranh du kích đánh lại Alexandros. Với cái chết của Darius, Alexandros tuyên bố cuộc chiến trả thù đã chấm dứt, và giải thể quân Hy Lạp và các đồng minh khác trong chiến dịch Đồng minh (mặc dù ông cho phép những ai muốn thì tái đăng kí như là lính đánh thuê trong quân đội hoàng gia của ông ta).
Chiến dịch ba năm của Alexandros ban đầu là chống lại Darius và sau đó là các satrap (thống đốc) của các vùng Sogdiana, Spitamenes, đã đưa ông qua các vùng Media, Parthia, Aria, Drangiana, Arachosia, Bactria và Scythia. Trong quá trình đó, ông chiếm được và tái thiết lập Herat và Maracanda. Hơn nữa, ông lập ra một chuỗi các thành phố mới, tất cả đều gọi là Alexandria, bao gồm cả Kandahar ngày nay ở Afghanistan, và Alexandria Eschate (“Xa nhất”) ở vùng nay là Tajikistan. Cuối cùng cả hai đều bị phản lại bởi tay chân thân cận của của họ, Bessus vào năm 329 TCN và Spitamenes năm sau đó.
[sửa] Những sự chống đối Alexandros
Trong thời gian này, Alexandros cho phổ biến một số loại áo quần và phong tục Ba Tư trong triều đình của anh, đáng chú ý là phong tục proskynesis, một cách hôn tay tượng trưng mà người Ba Tư thường làm để tỏ lòng kính trọng với những người có địa vị xã hội cao hơn, nhưng phong tục này không được người Hy Lạp chấp thuận. Những người Hy Lạp cho là cử chỉ này được dành riêng cho các thần linh và tin rằng Alexandros tự thần thánh hóa chính ông ta bằng cách yêu cầu cử chỉ đó. Điều này đã làm giảm sút sự thông cảm đáng kể đối với ông ta trong những người cùng quê hương. Nơi này cũng diễn ra một vụ mưu sát ông nhưng bị bại lộ, và một trong những sỹ quan, Philotas, bị xử tử vì tội phản bội vì đã không báo lên âm mưu đó kịp thời. Parmenion, cha của Philotas, người là đứng đầu một quân đoàn tại Ecbatana, bị ám sát theo lệnh của Alexandros, người sợ rằng Parmenion có thể trả thù cho con trai. Một số cuộc xử án khác về tội phản bội theo sau đó, và nhiều người Macedonia bị xử tử. Sau đó, trong một trận cãi nhau lúc say rượu tại Maracanda, ông cũng giết một người đàn ông đã cứu sống ông tại Granicus, Clitus Đen. Sau đó trong chiến dịch Trung Á, một vụ mưu sát Alexandros thứ hai được khám phá, lần này là bởi những người hầu cận của ông, và sử gia chính thức của ông, Callisthenes xứ Olynthus (người đã bị thất sủng vì đã dẫn đầu trong việc chống lại việc giới thiệu phong tục proskynesis), bị xử là liên đới chủ mưu và nhiều sử gia cho rằng đây là những vu cáo. Tuy nhiên, các chứng cứ khá rõ là Callisthenes, thầy của các người hầu cận, phải là người dụ dỗ họ ám sát nhà vua.[sửa] Xâm lược Ấn Độ
Sau cái chết của Spitamenes và đám cưới của ông với Roxana xứ Bactria (Roshanak trong tiếng Bactria) để củng cố quan hệ mới thiết lập với các tiểu vương vùng Trung Á, vào năm 326 TCN Alexandros cuối cùng rảnh tay để quay sự chú ý về phía Ấn Độ. Alexandros cho mời tất cả các thủ lĩnh của vùng trước là tiểu vương quốc xứ Gandhara, về phía bắc của vùng nay là Pakistan, đến gặp ông và chấp nhận đầu hàng. Ambhi, người cai trị xứ Taxila, với vương quốc trải dài từ sông Ấn đến tận Hydaspes (sông Jhelum), tuân theo. Nhưng thủ lĩnh của một số bộ tộc vùng cao bao gồm các phần Aspasios và Assakenois của Kambojas (tên cổ), được biết trong sử sách Ấn Độ như là Ashvayana và Ashvakayana (những cái tên chỉ bản chất cưỡi ngựa của họ), từ chối không đầu hàng.Alexandros thân chinh thống lĩnh lính cầm khiên, bộ binh, lính bắn cung người Agriania và lính cưỡi ngựa phóng lao tấn công bộ lạc Kamboja -- người Aspasios của thung lũng Kunar/Alishang, người Guraean của thung lũng Guraeus (Panjkora), và người Assakenois ở thung lũng Swat và Buner. Một trận đánh khốc liệt với người Aspasios và chính Alexandros bị trọng thương nơi vai vì trúng lao nhưng cuối cùng người Aspasios thua trận; 40.000 người của họ bị bán thành nô lệ. Người Assakenois đối đầu Alexandros với quân đội bao gồm 30.000 kị binh, 38.000 bộ binh và 30 voi[9]. Họ đã chiến đấu dũng cảm và kháng cự ngoan cường chống lại quân xâm lược trong nhiều địa điểm cố thủ ở các thành phố Ora, Bazira và Massaga. Đồn Massaga chỉ bị hạ sau nhiều ngày đánh nhau đẫm máu và chính Alexandros bị thương ở cổ chân. Khi thủ lĩnh của Massaga ngã xuống trên chiến trường, quyền tổng tư lệnh vào tay bà mẹ già của ông ta là Cleophis (q.v.) người cũng cương quyết bảo vệ đất mẹ đến hơi thở cuối cùng. Việc Cleophis giữ quyền tổng chỉ huy quân đội đã đưa toàn bộ lực lượng phụ nữ địa phương vào chiến trận[10]. Alexandros chỉ có thể hạ được Massaga bằng cách sử dụng các âm mưu chính trị và nội phản. Theo như Curtius:
- Alexandros không chỉ thảm sát toàn bộ dân thành Massaga, nhưng ông ta còn phá hủy các tòa nhà thành những đống đổ nát.
Sau những cuộc thảm sát và đốt phá bởi Alexandros ở Massaga và Ora, rất nhiều người Assakenois chạy lên một đồn cao gọi là Aornos. Alexandros đuổi sát theo họ và chiếm được đồn trên đồi cao nhưng chỉ sau bốn ngày đánh nhau ác liệt. Câu chuyện của Massaga được lặp lại ở Aornos và sự tàn sát người bộ lạc diễn ra tương tự sau đó.
Viết về chiến dịch của Alexandros chống lại người Assakenois, Victor Hanson nhận xét:
“ | Sau khi hứa hẹn những người Assacenis xung quanh rằng họ sẽ được tha mạng khi bị bắt, ông xử tử tất cả lính đã đầu hàng. Các điểm phòng thủ của họ ở Ora và Aornus cũng bị đánh ập vào. Các quân đoàn đóng trong đó có lẽ đều bị thảm sát.[11] | ” |
Sau khi hạ được Aornos, Alexandros băng qua sông Indus và đánh thắng trận lịch sử chống lại Porus, vua của xứ đó trong vùng Punjab trong trận đánh Hydaspes vào năm 326 TCN.
Sau chiến thắng này, Porus đã gây được ấn tượng mạnh mẽ với Alexandros về sự dũng cảm trong chiến đấu, vì vậy liên minh được với Alexandros và được ông cho giữ chức phó vương, cai quản vương quốc của chính mình, thậm chí còn thêm một số vùng đất khác nữa. Alexandros đặt tên cho một trong hai thành phố mới mà ông ta tìm được là Bucephala, tên của con ngựa đã đưa ông đến Ấn Độ. Alexandros tiếp tục chinh phục toàn bộ vùng thượng nguồn sông Ấn.
Phía Đông của vương quốc Porus, gần sông Hằng, là đế chế hùng mạnh Magadha (tức là Ma-kiệt-đà) dưới sự cai trị của triều đại Nanda. Lo sợ về khả năng phải đối mặt với một đội quân Ấn Độ hùng mạnh khác nữa và kiệt sức bởi nhiều năm chinh chiến, quân đội của ông nổi loạn ở sông Hyphasis (nay là Beas), không muốn chiến đấu tiếp nữa:
“ | Về phần người dân Macedonia, dẫu sao, cuộc chiến với Porus làm mài mòn lòng dũng cảm của họ và ngăn cản họ tiến xa hơn vào Ấn Độ. Thay vì làm tất cả những gì có thể để đẩy lùi kẻ thù với quân số chỉ có 20000 bộ binh và 2000 chiến mã, họ lại kịch liệt chống lại Alexandros khi ông khăng khăng đòi vượt qua sông Hằng, mà họ biết rộng 32 Fulông, sâu 100 sải, trong khi các nhánh sông phía bên kia được mai phục bởi vô số bộ binh, kỵ sĩ và voi. Họ được báo rằng các vị vua của Ganderites và Praesii đang đợi họ với 80000 kỵ sĩ, 200000 lính đánh bộ, 8000 xe ngựa và 6000 voi thiện chiến. Theo Plutarch, Vita Alexandri, 62 [12] | ” |
[sửa] Sau Ấn Độ
Phát hiện rằng rất nhiều phó vương và thủ lĩnh các đội quân của ông cư xử không đứng đắn khi ông vắng mặt, Alexandros cho hành hình rất nhiều người trong số họ làm gương trên đường đến Susa. Để biểu lộ thiện chí, ông ban thưởng cho binh lính và thông báo rằng ông sẽ gửi những người lính già và tàn tật về Macedonia dưới quyền của Craterus, nhưng quân đội hiểu nhầm ý định của ông và nổi dậy ở thị trấn của Opis, từ chối bị gửi đi và chỉ trích cay độc việc chấp nhận phong tục, trang phục của người Ba Tư và sự gia nhập của lính Ba Tư vào đoàn quân Macedonia. Alexandros cho hành quyết những kẻ cầm đầu cuộc nổi loạn, nhưng tha tội cho binh lính. Với dự định thiết lập mối giao hảo lâu dài giữa những người Macedonia và người Ba Tư, ông tổ chức hàng loạt hôn lễ giữa các sĩ quan của ông và người Ba Tư và cả những phụ nữ quý tộc Susa, nhưng rất hiếm cuộc hôn nhân nào kéo dài được hơn 1 năm.
Nỗ lực nhằm hòa hợp nền văn hóa Ba Tư với những người lính Hi Lạp của ông còn thể hiện ở việc huấn luyện một đội quận gồm những chàng trai Ba Tư theo cách của người Macedonia. Không có ghi chép chắc chắn về việc Alexandros chấp nhận cách gọi vua của người Ba Tư shahenshah (“đại hoàng đế” hay “vị vua của các vị vua”). Tuy nhiên, hầu hết các sử gia đều tin rằng ông đã chấp nhận việc đó.
Có giả thiết là Alexandros đã muốn xâm chiếm hoặc nhập với bán đảo Ả Rập, nhưng giả thiết này vẫn còn đang được tranh cãi. Có người cho rằng Alexandros đã tiến về phía tây và tấn công Carthage và Ý thay vì chiếm Ả Rập.
[sửa] Qua đời
Sau hành trình đến Ecbatana để lấy lại phần lớn của cải của Ba Tư, người bạn thân nhất và được ông yêu mến, tên là Cleitos đã chết vì bệnh tật. Alexandros đã quẫn trí, mắc bệnh và qua đời trên đường trở về tại cung điện của Nebuchadrezzar II, Babylon vào 10 tháng 6, 323 TCN, khi mới 33 tuổi.[5] Vài tháng trước khi mất, ông tập trung lực lượng để chuẩn bị mở mang bờ cõi. Quân sĩ Macedonia đã quá chán vào sinh ra tử để phục vụ cho giấc mộng bá chủ hoàn cầu của vua, nên đã nổi loạn. Trong cuộc loạn đó, họ đã hô những khẩu hiệu như:- Ông muốn đi chinh phạt thêm thì cứ việc! Nhưng khỏi kêu bọn tôi! Chỉ mình ông và cha ông là thần Amon cũng đủ!.[13]
[sửa] Người kế vị
Năm 306 TCN, sau khi hoàng gia Macedonia bị tiêu diệt, tướng Antigonus xưng vương, khiến cho các tướng khác noi theo. Năm 305 TCN Ptolemy khởi lập nhà Ptolemy ở Ai Cập, Cassander lên ngôi vua Macedonia trong khi Seleucus sáng lập nhà Seleucid ở Syria, Iran, Iraq, A Phú Hãn và các vùng đất phụ cận.
[sửa] Đời tư
Tượng Alexandros (phiên bản do người La Mã copy từ bức tượng do Lysippus thực hiện, bảo tàng Louvre). Theo Plutarch, các tác phẩm của Lysippus đẹp nhất.
Một số nhà sử học đã đặt nghi vấn về khẳng định về mối quan hệ đồng tính giữa Alexandros và Hephaestion. Robin Lane Fox viết rằng tuy “những lượm lặt gần đây nhất cho khẳng định rằng Alexandros có mối quan hệ yêu đương với Hephaiston”, không có văn kiện lịch sử đương thời nào nói về vấn đề này. Tuy nhiên, Fox nói thêm, “sự thực là tình bạn của hai người đàn ông này sâu sắc và thân thiết một cách khác thường.” [14] Vì cái chết của Hephaestion, Alexandros khóc thương cho ông ta rất nhiều, và không ăn uống gì trong mấy ngày liền.
[sửa] Danh ngôn
- Địch quân trong một thời gian dài vừa qua, luôn sống trong hoàn cảnh thái bình hưởng lạc, còn chúng ta thì luôn luôn chiến đấu và đã vượt qua không biết bao nhiêu thử thách gian nguy, mỗi chiến sĩ đều được luyện rèn nên đã trở thành kiên cường hơn. Một điều quan trọng nữa, đó là trận đánh này chính là một trận quyết đấu giữa người tự do và người nô lệ. Số người đi theo Darius để đánh giặc đều là những người vì tiền mà bán mạng cho ông ta. Trong khi quân đội của ta đều là chí nguyện quân chiến đấu vì đất nước Hy Lạp, là những chiến sĩ dũng cảm thiện chiến nhất ở Á châu. Chỗ yếu kém nhất của quân địch là ô hợp và không có tài năng. (lời nói trước tướng sĩ trong trận Issus)[7]
[sửa] Chú thích
- ^ Cái tên Αλέξανδρος bắt nguồn từ các từ άλεξ (bảo vệ) và άνδρας (người) trong tiếng Hy Lạp
- ^ Một việc Alexandros phải lặp lại hai lần vì các miền phía nam Hy Lạp nổi loạn sau khi Philipos qua đời
- ^ Plutarch, Alexander 2.2-3.
- ^ a b Tuổi thơ không êm đềm của đại đế Alexander
- ^ a b c d e Bùi Đức Tịnh (biên dịch), sách đã dẫn, trang 76
- ^ Plutarch, Alexander 2.1.
- ^ a b c d e Alexander lên ngôi - đánh đâu thắng đó
- ^ See note 1
- ^ Curtius.
- ^ (Ancient India, 1971, p 99, Dr R. C. Majumdar; History and Culture of Indian People, The Age of Imperial Unity, Foreign Invasion, p 46, Dr R. K Mukerjee.
- ^ Carnage and Culture: Landmark Battles in the Rise to Western Power, 2002, p 86, Victor Hanson.
- ^ Plutarch, Vita Alexandri, 62
- ^ "L'impérialisme macédonien et l'hellénisation de l'Orient" - Pierre Jouguet - trang 68
- ^ Nghiên cứu về Alexandros, Little, Brown và Co. Boston, 1980, p. 261.
[sửa] Tham khảo
- Bùi Đức Tịnh (biên dịch), Lịch sử thế giới: Từ 570 triệu năm trước đến 1990 sau Công nguyên: Trình bày bằng những hình ảnh cụ thể, NXB Văn hóa, 1997.
- Thẩm Kiên (chủ biên), Mười đại hoàng đế thế giới, Phong Đảo dịch, NXB Văn hóa thông tin, 2003
[sửa] Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và tài liệu về: |
- Đại đế Alexander dưới cái bóng của cha
- Tuổi thơ không êm đềm của đại đế Alexander
- Alexander lên ngôi - đánh đâu thắng đó
Tiền nhiệm: Philip II | Quốc vương của Macedonia 336–323 TCN | Kế vị: Philip III & Alexandros IV |
Tiền nhiệm: Darius III | Hoàng đế Ba Tư vĩ đại (Shah) 330–323 TCN | |
Pharaông của Ai Cập 332–323 TCN |
|
|
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
» Cám ơn bạn đã ghé TiemNet.tk.
» Bạn có ý kiến thắc mắc hay bình luận gì về bài viết vui lòng viết nhận xét.
» Sử dụng Bộ Gõ Tiếng Việt Online này nếu máy chưa có sẵn bộ gõ.
» Bấm vào nút "Đăng ký qua email" bên dưới để theo dõi bài này